Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010, có 3 yếu tố cần và đủ để xác định một người là khuyết tật mà không phân biệt nguồn gốc gây lên khuyết tật của mỗi cá nhân, cho nên trường hợp chồng của chị N được xác định khuyết tật và coi họ là nhóm yếu thế cần hưởng sự hỗ trợ, cụ thể như sau:
Thứ nhất, là người đó phải khiếm khuyết bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng do nguyên nhân bẩm sinh hoặc trong quá trình sinh hoạt đời sống hàng ngày, do chiến tranh, do tai biến đột quỵ, do tai nạn lao động hoặc tham gia giao thông mà lỗi bất kể thuộc về ai,...Thứ hai, là những khiếm khuyết, suy giảm chức năng phải được biểu hiện dưới dạng tật cụ thể theo quy định trong Luật Người khuyết tật năm 2010 và thực tế, một người có thể rơi vào một hoặc nhiều dạng khuyết tật khác nhau. Những khiếm khuyết bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng của con người có nhiều trong cuộc sống, có những khiếm khuyết nhìn thấy được nhưng cũng có những khiếm khuyết không nhìn thấy được và chỉ được đánh giá, xem xét khi biểu hiện dưới dạng khuyết tật được quy định trong Luật Người khuyết tật. Thứ ba, những khiếm khuyết và suy giảm chức năng phải là căn nguyên dẫn đến việc lao động, học tập sinh hoạt gặp khó khăn.
Một người có thể rơi vào một dạng hoặc nhiều dạng khuyết tật trong 6 dạng khuyết tật sau: (1) Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển; (2) Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói; (3) Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường; (4) Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường; (5) Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc; (6) Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các dạng khuyết tật nêu trên.
Có 3 mức độ khuyết tật để xác lập các chính sách hỗ trợ tương ứng, phù hợp với mức độ khó khăn của người khuyết tật, cụ thể: (1) Người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; (2) Người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; (3) Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định tại các điểm nêu trên.
Thẩm quyền xác định mức độ khuyết tật cho các đối tượng có nhu cầu đang cư trú (có hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú) trên địa bàn do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật ở cấp xã thực hiện. Trong một số trường hợp cụ thể thì việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng giám định y khoa ở cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương thực hiện, những trường hợp đó bao gồm: (1) Hội đồng xác định mức độ khuyết tật không đưa ra được kết luận về mức độ khuyết tật. Việc không đưa ra được kết luận có thể chỉ về dạng khuyết tật hoặc mức độ khuyết tật hoặc cả hai; (2) Người khuyết tật hoặc đại diện hợp pháp của người khuyết tật không đồng ý với kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật; (3) Có bằng chứng xác thực về việc xác định mức độ khuyết tật không khách quan, không chính xác.

Ảnh minh họa: nguồn internet
Hội đồng xác định mức độ khuyết tật là xác định người đó ở dạng khuyết tật nào và ở mức độ ra sao để làm căn cứ cấp Giấy xác nhận khuyết tật, đồng thời là cơ sở thực thi chính sách đối với người khuyết tật. Phương pháp xác định mức độ khuyết tật thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật Người khuyết tật. Hội đồng quan sát trực tiếp người khuyết tật, thông qua thực hiện hoạt động đơn giản phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày, sử dụng bộ câu hỏi theo các tiêu chí về y tế, xã hội quy định tại Phiếu xác định mức độ khuyết tật ban hành kèm theo Thông tư số 01/2019/TT-BLĐTBXH và các phương pháp đơn giản khác để xác định dạng khuyết tật, mức độ khuyết tật đối với từng người khuyết tật.
Việc cấp Giấy xác định mức độ khuyết tật: Đối với trường hợp do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật cấp xã thực hiện thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có biên bản kết luận của Hội đồng về dạng khuyết tật và mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân cấp xã niêm yết, thông báo công khai kết luận của Hội đồng tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và cấp Giấy xác nhận khuyết tật. Trường hợp có khiếu nại, tố cáo hoặc không đồng ý với kết luận của Hội đồng thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, Hội đồng tiến hành xác minh, thẩm tra, kết luận cụ thể và trả lời bằng văn bản cho người khiếu nại, tố cáo. Đối với trường hợp do Hội đồng giám định y khoa xác định, kết luận về dạng khuyết tật và mức độ khuyết tật thì trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ khi nhận được kết luận của Hội đồng Giám định y khoa, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy xác nhận khuyết tật.
Thủ tục, trình tự xác định, xác định lại mức độ khuyết tật được quy định các bước như sau: (1) Khi có nhu cầu xác định, xác định lại mức độ khuyết tật và cấp, cấp đổi, cấp lại Giấy xác nhận khuyết tật thì làm Đơn đề nghị theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư số 01/2019/TT-BLĐTBXH; kèm theo là bản sao các giấy tờ liên quan đến khuyết tật (nếu có) như: bệnh án, giấy tờ khám, điều trị, phẫu thuật, Giấy xác nhận khuyết tật cũ và các giấy tờ có liên quan khác; bản sao kết luận của Hội đồng Giám định y khoa về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động đối với trường hợp người khuyết tật đã có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa trước ngày Nghị định số 28/2012/NĐ-CP có hiệu lực hoặc các giấy tờ liên quan khác (nếu có) gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú theo quy định của pháp luật; (2) Khi nộp hồ sơ cần xuất trình các giấy tờ sau để cán bộ tiếp nhận hồ sơ đối chiếu các thông tin kê khai trong đơn: (i) Chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân của đối tượng, người đại diện hợp pháp, trẻ em thì cần phải có Giấy khai sinh. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Việc thực hiện xác định mức độ khuyết tật được tiến hành tại Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Trạm y tế. Trường hợp người khuyết tật không thể đến được địa điểm quy định trên thì Hội đồng tiến hành quan sát và phỏng vấn người khuyết tật tại nơi cư trú của người khuyết tật.
Về chế độ, theo khoản 6 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP, người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, mức chuẩn trợ giúp xã hội là 360.000 đồng/tháng (trước đây 270.000 đồng/tháng): Trợ cấp hàng tháng 720.000 đồng đối với người khuyết tật đặc biệt nặng; 900.000 đồng đối với trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật đặc biệt nặng; 540.000 đồng đối với người khuyết tật nặng; 720.000 đồng đối với trẻ em khuyết tật nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật nặng. Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người khuyết tật thuộc đối tượng trợ cấp xã hội hàng tháng, khi đi khám chữa bệnh đúng tuyến thì được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám chữa bệnh thuộc phạm vi chi trả bảo hiểm y tế; chi phí vận chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến trên trong trường hợp cấp cứu hoặc khi đang điều trị nội trú phải chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật.
Người khuyết tật có rất nhiều quyền, trong đó có quyền được Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cử trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư trợ giúp pháp lý miễn phí khi gặp rắc rối hay tranh chấp pháp luật,…như: (1) Tư vấn pháp luật; (2) Bào chữa/bảo vệ khi người khuyết tật tham gia trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính với tư cách là bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn,..;(3) Đại diện ngoài tố tụng trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ như làm thủ tục công nhận người khuyết tật cho chồng của chị N trong tình huống nếu trên. Tuy nhiên, để được trợ giúp pháp lý thì phải thuộc một trong 14 nhóm người được trợ giúp pháp lý theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý như: Người có công với cách mạng, người nghèo, trẻ em,…trong đó có “Người khuyết tật” với điều kiện có khó khăn về tài chính (là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng), có nghĩa là họ đã được công nhận là người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng đang hưởng trợ cấp hàng tháng.
Người khuyết tật là người yếu thế trong xã hội, vậy nên sự chăm sóc, đảm bảo quyền lợi cho họ là hoạt động có ý nghĩa quan trọng mà gia đình, xã hội, chính quyền và những người thực thi chính sách cần quan tâm thực hiện.