Trang thông tin điện tử Trung tâm TGPL Nhà nước

Hướng dẫn nghiệp vụ

Xem với cỡ chữAA

Trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng

(15:11 | 23/06/2023)

         Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và trong các Bộ luật, luật về tố tụng năm 2015 đã thể chế hóa thành các điều luật cụ thể, đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý của người được trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng với tư cách là ngượi bị tố giác, bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan…trong các vụ án.

       Quy định của Luật Trợ giúp pháp lý về tham gia tố tụng: Điều 31 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định: Trợ giúp viên pháp lý, luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa/bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý. Việc quy định này là kế thừa từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 để đảm bảo chất lượng trợ giúp pháp lý, thể hiện tính chuyên nghiệp của người cung cấp dịch vụ pháp lý.

       Khi người thuộc diện được trợ giúp pháp lý yêu cầu trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ việc, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm cử trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư để thực hiện bào chữa/bảo vệ cho người được trợ giúp pháp lý. Trường hợp người được trợ giúp pháp lý là người bị bắt, người bị tạm giữ yêu cầu cử người thực hiện trợ giúp pháp lý, trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm thụ lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm cử người thực hiện trợ giúp pháp lý.

        Trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý của người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý của bị can, bị cáo, người bị hại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại địa phương.

        Ngay sau khi nhận được thông báo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có trách nhiệm thụ lý và cử trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư tham gia tố tụng bằng quyết định và gửi cho người được trợ giúp pháp lý, cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan.

        Trong trường hợp người yêu cầu trợ giúp pháp lý chưa thể cung cấp giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý và các giấy tờ có liên quan đến vụ việc nhưng cần thực hiện trợ giúp pháp lý ngay do vụ việc sắp hết thời hiệu khởi kiện, sắp đến ngày xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng chuyển yêu cầu trợ giúp pháp lý cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc để tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý thì người tiếp nhận yêu cầu báo cáo người đứng đầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và thụ lý ngay, đồng thời hướng dẫn người yêu cầu trợ giúp pháp lý bổ sung các giấy tờ, tài liệu cần thiết (khoản 4 Điều 30 Luật Trợ giúp pháp lý).

       Phạm vi thực hiện trợ giúp pháp lý hình thức tham gia tố tụng được quy định tại Điều 26 Luật Trợ giúp pháp lý là người được trợ giúp pháp lý đang cư trú tại địa phương, vụ việc trợ giúp pháp lý xảy ra tại địa phương, vụ việc trợ giúp pháp lý do cơ quan có thẩm quyền về trợ giúp pháp lý ở Trung ương yêu cầu.

Ảnh minh họa: nguồn internet

       Quy định của Bộ luật, luật tố tụng về trợ giúp pháp lý: Bên cạnh quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 “Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước”, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (khoản 3 Điều 9), Luật Tố tụng hành chính (khoản 3 Điều 19) quy định: “Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án”. Đây là những quy định hoàn toàn mới so với các Bộ luật, luật về tố tụng trước đây.  

      Cụ thể hóa bằng các điều luật, Thẩm phán là người được Nhà nước giao có trách nhiệm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý trong các vụ việc dân sự, hành chính. Khi được Chánh án phân công giải quyết vụ việc, Thẩm phán có trách nhiệm “Giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý” (khoản 6 Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 6 Điều 38 Luật Tố tụng hành chính). Không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự và trong tố tụng hành chính (khoản 13 Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 19 Luật Tố tụng hảnh chính).

       Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định trong vụ án hình sự, người được trợ giúp pháp lý có thể là: Người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, họ có quyền tự mình bào chữa/bảo vệ hoặc nhờ người khác bào chữa/bảo vệ cho mình.

        Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đồng thời có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước các trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý (khoản 1 Điều 71 Bộ luật Tố tụng hình sự).

        Việc chỉ định người bào chữa theo Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự cho bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất, người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi, nếu họ thuộc diện người được trợ giúp pháp lý thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử người bào chữa cho họ (trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư).

       Nếu trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng (trong đó có người được trợ giúp pháp lý là người bị buộc tội, người bị hại, đương sự: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án thì được coi là “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” (điểm o khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự).

        Để đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý và đảm bảo mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước được cử người bào chữa/bảo vệ cho người được trợ giúp pháp lý trong cả trường hợp họ có quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ án như: bị cáo với bị hại; nguyên đơn với bị đơn…(một bên có thể là trợ giúp viên pháp lý, bên kia là luật sư hoặc là hai luật sư thuộc hai tổ chức hành nghề luật sư khác nhau).

Bùi Đức Độ