Trang thông tin điện tử Trung tâm TGPL Nhà nước

Hướng dẫn nghiệp vụ

Xem với cỡ chữAA

Người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án

(14:36 | 23/06/2023)

        Cụ thể hóa những quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các bộ luật, luật về tố tụng về việc đảm bảo cho người thuộc diện trợ giúp pháp lý được trợ giúp pháp lý đầy đủ, kịp thời,…bằng Chương trình phối hợp số: 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022 của Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án nhân dân.

Cơ sở pháp lý ban hành Chương trình phối hợp

      Trước khi có Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam đã có những quy định về bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý.  

      Những quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thể hiện thống nhất về trách nhiệm cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền của cơ sở giam giữ, trại giam trong việc giải thích, hướng dẫn, thông báo, thông tin và bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý; yêu cầu hoặc đề nghị Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý bào chữa/bảo vệ cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Tiếp cận sớm hơn, có thể còn ở giai đoạn tiền tố tụng như: làm hồ sơ khởi kiện, thu thập chứng cứ; tham gia cùng người được trợ giúp pháp lý khi tố giác, kiến nghị khởi tố hoặc bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố.  

       Khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được Quốc hội thông qua (thay thế Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006) thì tinh thần “chủ động tiếp cận, phục vụ kịp thời” người thuộc diện được trợ giúp pháp lý còn được củng cố thêm bằng việc quy định tại khoản 2 Điều 41 Luật Trợ giúp pháp lý đó là: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện cho người được trợ giúp pháp lý được hưởng quyền trợ giúp pháp lý, tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật”, có nghĩa là Luật quy định về trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý thông qua việc tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng.

      Cụ thể hóa Luật Trợ giúp pháp lý cũng như các bộ luật, luật về tố tụng, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động phối hợp về trợ giúp pháp lý. Theo đó, Thông tư liên tịch đã hướng dẫn cụ thể các nội dung về cung cấp thông tin 14 nhóm người thuộc diện được trợ giúp pháp lý (theo Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý) cho tất cả những người tham gia tố tụng (người bị bắt, bị can, bị cáo, bị hại, đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,..), giải thích quyền được trợ giúp pháp lý; thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước khi người thuộc diện trợ giúp pháp lý hoặc tự nhận mình là người thuộc diện được trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng; bảo đảm cho Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng, trong đó “Khuyến khích Cơ quan điều tra, Tòa án các cấp tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại các cơ quan này phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để người được trợ giúp pháp lý biết và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp thời” (khoản 9 Điều 8).

      Triển khai Thông tư liên tịch số 10, Tòa án nhân dân tối cao đã có Công văn số 244/TANDTC-PC ngày 05/11/2019 gửi Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp, trong đó có nội dung chỉ đạo Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, Chánh án Tòa án quân sự các cấp “Phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án mình phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất thực tế của địa phương,…” (Mục 4 Công văn số 244/TANDTC-PC).

       Bên cạnh cơ sở pháp lý nêu trên, qua số vụ việc tham gia tố tụng hàng năm của các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thì số vụ việc được trợ giúp pháp lý trong tố tụng so với số vụ việc thụ lý giải quyềt các vụ án và  tham gia tố tụng do Tòa án thụ lý, giải quyết còn thấp, nên rất có thể  bỏ sót nhiều người thuộc diện được trợ giúp pháp lý không được hưởng quyền được trợ giúp pháp lý, đồng nghĩa với sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước trong hoạt động tố tụng theo Thông tư liên tịch số 10 chưa đầy đủ, kịp thời...

Ảnh minh họa: nguồn internet

Chương trình phối hợp người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án

      Ngày 19/5/2022, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao ban hành Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án, nhằm mục đích: bảo đảm tiếp cận trợ giúp pháp lý kịp thời trong tố tụng cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thuộc diện được trợ giúp pháp lý; bảo đảm đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý trong các vụ việc mà Tòa án thụ lý được giải thích đầy đủ, được tiếp cận, cung cấp và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp thời, phù hợp với người dưới 18 tuổi và các đối tượng đặc thù khác; tăng cường công tác phối hợp giữa Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước với Tòa án trong việc trợ giúp pháp lý, đặc biệt trong việc thông tin, thông báo về trợ giúp pháp lý; giúp Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể sớm tiếp cận đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý, cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp thời, hiệu quả.

      Chương trình cho phép tùy điều kiện thực tế tại địa phương, các Tòa án có quyền lựa chọn hình thức trực tại trụ sở Tòa án hoặc trực qua điện thoại; Tòa án bố trí cho người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước trực tại trụ sở Tòa án hoặc kết nối điện thoại và tạo điều kiện thuận lợi cho người thuộc diện trợ giúp pháp lý được tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý thông qua các hình thức sau:

      Hình thức trực tại trụ sở Tòa án: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước căn cứ vào tình hình thực tiễn để cử người trực tất cả các ngày làm việc hoặc một số ngày làm việc trong tuần tại trụ sở Tòa án. Người trực tiếp nhận nguồn tin, yêu cầu trợ giúp pháp lý từ người tiến hành tố tụng, công chức Tòa án, người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, người thân thích của họ hoặc từ cơ quan, tổ chức khác và ghi chép, thống kê vào sổ trực trợ giúp pháp lý.

      Hình thức trực qua điện thoại: Tòa án có trách nhiệm niêm yết danh sách, số điện thoại của người trực tại Tòa án. Người tiến hành tố tụng, công chức Tòa án khi phát hiện người thuộc diện được trợ giúp pháp lý thì thông tin và cung cấp số điện thoại của họ ngay cho người trực. Đồng thời, hướng dẫn người thuộc diện được trợ giúp pháp lý đến nơi niêm yết danh sách, số điện thoại của người trực. Người trực khi nhận được thông tin, số điện thoại của người thuộc diện được trợ giúp pháp lý thì liên hệ với người thuộc diện được trợ giúp pháp lý hoặc người thân thích (vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột) của họ để thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý và ghi chép, thống kê vào sổ trực trợ giúp pháp lý. Trường hợp người thuộc diện được trợ giúp pháp lý không sử dụng điện thoại thì cán bộ Tòa án cung cấp địa chỉ Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước để họ liên hệ, đồng thời điện thoại báo cho người trực biết.

      Phân công trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức tham gia, Tòa án cấp tỉnh phối hợp, xem xét, thống nhất việc trực của trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện thực tế tại Tòa án; lựa chọn địa điểm và triển khai việc trực; thống nhất niêm yết danh sách, số điện thoại của người trực. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước lập dự toán cho việc thực hiện, lập danh sách, phân công người trực thực hiện theo nội dung Chương trình phối hợp; thực hiện chi trả bồi dưỡng, thù lao chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý cho người trực; thống kê vào sổ trực trợ giúp pháp lý; đánh giá, báo cáo kết quả thực hiện Chương trình phối hợp và đề xuất giải pháp gửi Sở Tư pháp.

        Thời gian thực hiện là 05 năm; phạm vi thực hiện gồm Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện của 63 tỉnh, thành cả nước. Về người trực, phải là người thực hiện trợ giúp pháp lý (Trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý) và có đủ năng lực để tiếp nhận, hướng dẫn, thực hiện trợ giúp pháp lý ngay khi có yêu cầu. Người trực được hưởng bồi dưỡng, thù lao, chi phí phát sinh khi thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý trong quá trình trực theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.

Một số yêu cầu người trực tại Tòa án

        Khi tiếp nhận thông tin từ cán bộ Tòa án, người trực cần nhanh chóng gọi điện cho người thuộc diện trợ giúp pháp lý để lấy các thông tin về nhân thân và giấy tờ chứng minh thuộc diện được trợ giúp pháp lý, làm các thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý, xác định những vụ việc phải thụ lý ngay và cử người thực hiện trợ giúp pháp lý kịp thời theo Điều 30 Luật Trợ giúp pháp lý, sau đó yêu cầu người được trợ giúp pháp lý bổ sung giấy tờ còn thiếu. 

        Nắm vững kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng trao đổi với người được trợ giúp pháp lý là một đòi hỏi bắt buộc đối với người trực tại Tòa án. Yêu cầu người thực hiện trợ giúp pháp lý phải kết hợp các kỹ năng nghe, nói, đặt câu hỏi,... để thu nhận được những thông tin chính xác, trung thực về vụ việc của người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, đồng thời phải biết về tâm lý của những đối tượng đặc thù để có hình thức trao đổi cho phù hợp, nhưng về nguyên tắc chung là phải có thái độ khiêm tốn, đúng mực và tôn trọng để xây dựng niềm tin của người được trợ giúp pháp lý.

        Nghe đối tượng trình bày để hiểu rõ yêu cầu trợ giúp pháp lý của họ, đặt câu hỏi để làm rõ các tình tiết của vụ việc trợ giúp pháp lý. Khi người được trợ giúp pháp lý trình bày, người trực cần chú ý lắng nghe và ghi chép đầy đủ những nội dung chính, từ đó có thể đưa ra câu hỏi yêu cầu đối tượng để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ việc. Trong đó, người trực cần dùng cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ (tiếp đón đối tượng chu đáo, thăm hỏi sức khoẻ đối tượng và gia đình, tập trung chú ý vào đối tượng khi đối tượng đang trình bày...) để thể hiện sự chú ý lắng nghe đối tượng nói; tạo cơ hội, điều kiện, môi trường đối thoại cởi mở, thoải mái để đối tượng diễn đạt hết suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của họ; dùng lời nói hoặc thái độ, hành vi, cử chỉ để kiểm tra, khẳng định lại những thông tin về suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của đối tượng mà mình tiếp nhận được. Sau khi đã nắm tương đối đầy đủ thông tin, người trực cần tóm lược các nội dung chính và yêu cầu của họ, thống nhất với người được trợ giúp pháp lý nội dung cần thực hiện.

        Sau khi trao đổi, ghi chép khi tiếp xúc với người được trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần giữ lại các giấy tờ (bản sao) có liên quan đến nội dung vụ việc và nhân thân của đối tượng để làm cơ sở cho quá trình trợ giúp pháp lý sau này, đồng thời hướng dẫn quy trình, thủ tục... để người thuộc diện được trợ giúp pháp lý biết, hiểu và phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý.

       Khi tiếp xúc, thực hiện trợ giúp pháp lý cho một số đối tượng đặc thù trong 14 nhóm đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý cần chú ý tâm lý của họ. Chẳng hạn như: người thuộc hộ nghèo thường hay mặc cảm, tự ti nên cần phải có thái độ chia sẻ, tôn trọng để hướng đến quy định giàu – nghèo đều bình đẳng trước pháp luật. Với người dân tộc thiểu số, nhìn chung còn ngại tiếp xúc, trình bày vụ việc có thể không rõ ràng, lộn xộn, có nhiều trường hợp nghe nói tiếng phổ thông chưa nhanh,... nên người trực cần bình tĩnh, chịu khó lắng nghe họ trình bày. Đối tượng là người khuyết tật, nhất là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người trực cần phải kiên nhẫn nghe họ trình bày, biết cảm thông, chia sẻ,..

Triển khai Chương trình phối hợp ở Kiên Giang

         Thực hiện Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC, Sở Tư pháp và Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang có Kế hoạch phối hợp số 2936/KHPH-STP-TAND triển khai Chương trình phối hợp về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

       Trước đó, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cũng đã có Thông báo số 54/TB-TTTGPL ngày 23/6/2022 phân công Trợ giúp vên pháp lý trực tại Tòa án tỉnh và 15 Tòa án cấp huyện. Tòa án tỉnh cũng đã có Công văn số 69/CV-TAT(VP) ngày 25/7/2022, chỉ đạo các Tòa án trong phạm vi trách nhiệm của mình phân công Thẩm phán, Thư ký và công chức khác thuộc đơn vị mình niêm yết họ tên, danh sách, số điện thoại của  Trợ giúp viên pháp lý phụ trách trực ở Tòa, thực hiện chế độ thông tin, kết nối, liên hệ với người thực hiện trợ giúp pháp lý theo Chương trình phối hợp.

       Chỉ đạo Tòa cấp huyện, nếu có điều kiện về cơ sở vật chất thì bố trí chỗ ngồi, bàn làm việc cho Trợ giúp viên được phân công trực tại Tòa án. Về hình thức trực, chủ yếu Trợ giúp viên pháp lý trực qua điện thoại, kết hợp với trực trực tiếp tại Tòa khi có điều kiện và xét thấy cần thiết. “Thẩm phán, Thư ký và công chức khác được phân công nhiệm vụ có trách nhiệm giới thiệu người thuộc diện được trợ giúp pháp lý tới gặp Trợ giúp viên pháp lý tại trụ sở; thông tin, thông báo về trợ giúp pháp lý phải chuyển đến cho người trực”.

      Tuy nhiên, qua một thời gian triển khai Chương trình phối hợp, kết quả chưa được như mong muốn. Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng toàn tỉnh tuy có tăng so với cùng kỳ năm trước, nhưng mục đích là người thuộc diện trợ giúp pháp lý được tiếp cận, cung cấp và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý từ sớm có phần còn hạn chế, nhất là ở giai đoạn tiền tố tụng khi người thuộc diện trợ giúp pháp lý nộp đơn khởi kiện.

      Mong rằng trong thời gian tới, Chương trình phối hợp người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án trên địa bàn tỉnh đảm bảo cho mọi đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý trong các vụ việc mà Tòa án thụ lý được giải thích đầy đủ, được tiếp cận, cung cấp và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp thời.

Bùi Đức Độ